Xuất khẩu thuỷ sản đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Ngành thuỷ sản là một trong những lĩnh vực có đóng góp lớn vào GDP (tổng sản phẩm quốc nội) của quốc gia và cung cấp việc làm cho hàng triệu người dân. Là một trong những ngành mũi nhọn của cả nước, thủy sản đóng góp tiềm năng đáng kể cho nền kinh tế Việt Nam cũng như dịch vụ logistic toàn cầu. Mặc dù vẫn có những thử thách phải đối mặt, song ngành thuỷ sản vẫn luôn đóng vai trò quan trọng, mang đến thành công lớn cho Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tầm quan trọng của xuất khẩu thuỷ sản như sau:
Nguồn thu nhập xuất khẩu: Xuất khẩu thuỷ sản đem về lượng tiền tệ lớn cho đất nước từ việc bán sản phẩm ra thị trường quốc tế. Việc thu hút dòng vốn này giúp cải thiện tổng mức xuất khẩu và dự trữ ngoại hối, làm tăng sức mạnh kinh tế của Việt Nam trong thị trường quốc tế.
Tạo việc làm: Ngành thuỷ sản là một trong những ngành cung cấp việc làm đáng kể cho người dân, đặc biệt là trong các vùng ven biển và nông thôn. Việc tạo ra cơ hội việc làm giúp giảm thiểu tình trạng thất nghiệp và giảm bớt áp lực về đô thị hóa.
Phát triển kinh tế địa phương: Xuất khẩu thuỷ sản thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong các vùng ven biển và vùng nông thôn, nơi mà nguồn lợi tự nhiên và tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản phong phú. Điều này góp phần giảm bớt khoảng cách phát triển giữa các khu vực trong cả nước.
Thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản: Xuất khẩu thuỷ sản góp phần làm tăng tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc thúc đẩy sự đa dạng hoá nền kinh tế, giúp giảm thiểu tác động của các biến đổi thị trường quốc tế đối với một số ngành kinh tế chủ chốt.
Đóng góp vào phát triển nông nghiệp: Ngành thuỷ sản là một phần quan trọng của ngành nông nghiệp, góp phần cân đối và tăng cường sản xuất nông nghiệp trong nước. Điều này làm tăng cơ hội xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp Việt Nam và đảm bảo cung ứng thực phẩm cho thị trường trong nước.
Tóm lại, xuất khẩu thuỷ sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, từ việc cung cấp thu nhập xuất khẩu đáng kể, tạo việc làm cho người dân, đến thúc đẩy sự phát triển kinh tế địa phương và ngành nông nghiệp. Điều này cần được chú trọng phát triển và tăng cường để tiếp tục đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững của quốc gia.
Tình hình thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Việt Nam
Theo thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) năm 2019, tốc độ tăng giá trị sản xuất thủy sản đã đạt 6,25% so với toàn năm 2018. Tổng sản lượng vào 2019 đạt khoảng 8,15 triệu tấn, tăng 4,9% bao gồm sản lượng khai thác đạt 3,77 triệu tấn tăng 4,5%; nuôi trồng đạt 4,38 triệu tấn tăng 5,2%. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2019 đạt khoảng 8,6 tỷ USD.
Trong nhóm các sản phẩm chủ lực, chỉ có cá ngừ duy trì tăng trưởng gần 12%, còn các mặt hàng khác đều có xu hướng giảm. Đáng chú ý nhất là sản phẩm tôm giảm gần 5%; cá tra giảm 12%; mực, bạch tuộc giảm 13%. Song song đó, việc xuất khẩu những loài cá khác tăng tương đối đạt mức 15% đã hỗ trợ hạn chế sụt giảm tổng kim ngạch.
Thông qua sự phát triển của dịch vụ logistic toàn cầu, thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu đến nhiều quốc gia trên thế giới. Những thị trường nhập khẩu lớn nhất của nước ta chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên vào năm 2020, tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong các tháng đầu năm bị sụt giảm đáng kể. Có thể thấy, nguyên nhân đáng chú ý là do giá xuất khẩu bị giảm bởi ảnh hưởng của dịch Covid-19, các quốc gia ban bố lệnh hạn chế di chuyển, ảnh hưởng tiêu cực đến kết nối dịch vụ logistic toàn cầu.
Cơ hội và thách thức của thuỷ sản Việt Nam
Cơ hội
– Việt Nam có nhiều yếu tố được thiên nhiên ban tặng như đường bờ biển dài, hệ thống sông, hồ đa dạng, thuận lợi cho việc nuôi trồng các loại thủy sản. Hơn nữa, biển của Việt Nam có nhiều dòng hải lưu nóng, lạnh khác nhau nên nguồn cá, hải sản khá phong phú. Ngư dân Việt Nam lại có truyền thống đi biển khai thác hải sản lâu đời, hình thành các làng nghề đánh cá xa bờ. Do đó, Việt Nam có thể cung cấp khối lượng lớn thủy sản an toàn, chất lượng ổn định nhờ nguồn cung dồi dào và từ tiềm năng của 28 tỉnh ven biển, có nguồn đất, nguồn nước nuôi trồng thuỷ sản và ngành chế biến phát triển với hơn 600 doanh nghiệp xuất khẩu.
– Chính phủ Việt Nam ngày càng quan tâm phát triển ngành Thuỷ sản với mục tiêu và kế hoạch phát triển lớn, tạo lập hệ thống sản xuất – kinh doanh có chiến lược, bài bản. Hơn nữa, ngành Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuỷ sản ngày càng quan tâm đến vệ sinh An toàn thực phẩm, trách nhiệm môi trường – xã hội, các nhà máy chế biến đều áp dụng HACCP, ngày càng nhiều vùng nuôi, nhà máy chế biến đạt các chứng nhận bền vững như ASC, GLOBAL GAP, MSC,VietGAP,… Nhờ đó, thuỷ sản Việt Nam đã xây dựng được thương hiệu uy tín, được người tiêu dùng trong khu vực và thế giới ưa chuộng.
– Công nghệ chế biến phát triển có thể tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng, có giá trị gia tăng cao. Nguồn lao động có tay nghề cao, nguồn cung hàng khá ổn định và có sự áp dụng các mô hình khép kín, liên kết chuỗi tốt trong các ngành hàng nên có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng các nước.
– Có nhiều hiệp định FTA với các nước và vùng lãnh thổ mang lại lợi thế về thuế xuất nhập khẩu và cơ hội để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 16 FTA với các nước tham gia, chiếm 73% giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam, trong đó có 13 FTA đã ký và chiếm 71% giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Ngoài ra, Hiệp định EVFTA có hiệu lực từ tháng 8 năm 2020 và hiệp định UKVFTA sẽ thúc đẩy xuất khẩu sang EU và Anh, tạo nhiều điều kiện hơn cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
– Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, một cuộc khủng hoảng lương thực đang âm thầm diễn ra và cũng hết sức gay gắt. Các số liệu từ Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc (FAO) cho thấy, giá lương thực đã tăng 30% trong vòng một năm qua do dịch bệnh Covid-19 và cuộc xung đột tại Ukraine khiến chuỗi cung ứng toàn cầu bị thắt chặt. Để ứng phó trước tình trạng này, có ngày càng nhiều quốc gia lựa chọn cắt giảm xuất khẩu và tăng cường tích trữ lương thực, thực phẩm cho nước mình. Những động thái này được đánh giá là có thể khiến cho tình hình khan hiếm lương thực càng trở nên tồi tệ hơn, khiến giá cả tiếp tục leo thang. Tuy nhiên, đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng khắp nơi trên thế giới.
Là một quốc gia có nhiều thế mạnh về nông nghiệp, Việt Nam được tin tưởng sẽ là nguồn cung cấp lương thực quan trọng, góp phần giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực ở châu Phi. Đây được coi như là một cơ hội mang tính chiến lược cho Việt Nam. Khi đã có nguồn hàng hóa dồi dào, ổn định và chất lượng thì nước ta có thể dễ dàng thỏa thuận hợp tác cung cấp dài hạn sản phẩm cho nhiều nước khác. Khi đó, Chính phủ có thể ký các hợp đồng khung với các nước, vừa thể hiện vai trò quan trọng của Việt Nam, vừa tạo ra được một “quyền lực mềm” để tái đầu tư cho sản xuất trong nước.
Thách thức
– Ngành Thủy sản nước ta hiện nay đang phải đối mặt với yếu tố thời tiết, biến đổi khí hậu. Điều này tác động nghiêm trọng tới việc quy hoạch, cơ cấu sản xuất và tập quán nuôi trồng thủy sản của người dân. Đặc biệt, tình trạng ô nhiễm môi trường ở sông, hồ, một số vùng biển khiến thủy sản chết hàng loạt, ảnh hưởng lớn đến sản lượng và chất lượng thuỷ sản xuất khẩu.
– Tình trạng tăng trưởng “nóng” của một số thị trường thủy sản cũng để lại nhiều hệ lụy, nhất là tình trạng được mùa nhưng lại mất giá. Ngoài ra, sự thay đổi về tỷ giá, biến động thị trường cũng tác động mạnh đến doanh nghiệp và toàn ngành Thủy sản.
– Rõ ràng, các thị trường chắc chắn rất chú trọng kiểm soát các yếu tố an toàn thực phẩm, truy suất nguồn gốc như “thẻ vàng IUU” mà châu Âu đang gắn cho sản phẩm thủy sản từ Việt Nam Các tiêu chuẩn kiểm soát chất lượng, kiểm nghiệm kiểm dịch, vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước ngày càng khắt khe.
Hiện nay, thị trường tiềm năng lớn là Trung Quốc vẫn đang tăng cường kiểm soát đối với hàng thực phẩm đông lạnh nhập khẩu nên các doanh nghiệp thủy sản nước ta cần phải không ngừng nâng cao chất lượng và thực hiện đầy đủ quy định, hướng dẫn phòng chống dịch Covid-19 để đáp ứng được các yêu cầu của nước nhập khẩu.
Riêng đối với những thị trường khó tính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, rất dễ có nguy cơ lượng hàng thủy sản bị trả về, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp và uy tín của ngành Thủy sản Việt Nam.
– Sự căng thẳng giữa Nga và Ukraina, cuộc khủng hoảng năng lượng hiện nay đã gây ra những khó khăn lớn cho các doanh nghiệp. Giá dầu tăng và liên tục tạo đỉnh mới đã khiến giá cước vận tải tăng và khiến các chi phí đầu vào tăng theo.
Xuất khẩu thủy sản phải đối mặt với các thách thức lớn trong thời gian tới do sự khan hiếm nguồn nguyên liệu đảm bảo cho sản xuất xuất khẩu, như việc tăng giá cước tàu cùng với các chi phí đầu vào tăng. Các đơn hàng xuất khẩu thời điểm này là đơn hàng đã ký trước và trong giai đoạn dịch Covid-19.
Do vậy, giá xuất chưa bù đắp được sự tăng lên về chi phí sản xuất giai đoạn này. Đây là gánh nặng cho các doanh nghiệp xuất khẩu, làm giảm bớt lợi nhuận của họ.
– Việc TP. HCM thu phí sử dụng hạ tầng khu vực cửa khẩu cảng biển đối với hàng hóa vận tải bằng đường thủy nội địa, ra các quy định kiểm dịch hàng thủy sản đông lạnh đối với những nguyên liệu nhập khẩu dùng làm thực phẩm chế biến xuất khẩu cũng là những vấn đề khó khăn với các doanh nghiệp thủy sản.